Câu chuyện Lịch sử "có một làng nghề"
Theo dòng thời gian lịch sử thì làng Ðào Thục hình thành từ lâu đời. Nhưng thời kỳ hưng thịnh
nhất theo Ðại Việt Sử Ký Toàn Thư và gia phả của các họ tộc lâu đời nhất, có văn bản bút tích ghi
chép, thì đến thời hậu Lê, đặc biệt thời Vua Lê Hy Tông (1675-1705) xuống chiếu mộ dân lập ấp
xây dựng làng xóm phát triển khắp nơi.
Ở làng Ðào Xá được Vua ban cờ lệnh phong cho quan Phụng Sai Phụ Tá, Quản Thị Nội Hiệu đẳng
ty, Tư Lễ Giám, Tổng Thái Giám là Nguyễn Ðăng Vinh, tước Lai Triều Hầu về quê hương xây dựng
lại địa phương, phát triển văn hóa nghệ thuật múa rối nước chốn Kinh Kỳ, bởi làng Ðào Xá là một
ngôi làng cổ kính có bề dày lịch sử từ lâu đời.
Vua còn cho đi theo ngài là một nàng “Ðào Hát” hay còn gọi là Ca Nương xinh đẹp tuyệt trần,
người được nhà Vua yêu mến nhất, nên để nàng lại trong cung thì Vua sợ nàng ắt vướng phải
chuyện thị phi nguy hiểm tới tính mạng với sự đố kỵ ghen ghét của bao cung tần mĩ nữ khác chứ
đừng nói gì đến Hoàng Hậu đương thời.
Ði theo hầu cũng có khoảng một tá giai nhân khác xinh đẹp tuyệt trần vì thế làng Ðào Xá sau này
mới đổi tên là làng Ðào Thục. Và Trang Ðào Xá được phát triển từ đó, triều đình Hậu Lê muốn xây
dựng làng Ðào Xá là một làng kiểu mẫu xứ Kinh Bắc. Câu ca dao “Thứ nhất kinh kỳ, thứ nhì Ðào
Xá cũng là từ đó mà ra”.
Tìm mau dấu tích ông cha
Hiểu làng Ðào Xá quê nhà thời Lê
Làng tôi ở cạnh triền đê
Quê hương tôi vẫn đi về ngàn năm
Sân đình đã mấy trăm năm
Cơ đồ một thuở xa xăm dội về
Gần 3 thế kỷ đi qua, bao thế hệ ông cha nối tiếp nhau bằng mồ hôi nước mắt, bằng sức lực và trí
tuệ, bằng nghị lực và lòng dũng cảm, đã khai hoang ruộng đất cải tạo ruộng đồng, biến đất cằn
sỏi đá, biến nơi đầm lầy, cây cối hoang vu rậm rạp thành một làng quê trù phú, xây dựng làng
vuông vắn theo lối bàn cờ, quy hoạch đường ngang lối dọc, tạo hình như một con thuyền kiên cố
vững chắc bên cạnh con sông Cà Lồ hoa màu xanh tươi bát ngát mầu mỡ phì nhiêu, dòng sông
Cà Lồ uốn khúc quanh co ngày đêm rì rào sóng vỗ, bồi đắp phù xa tạo ra địa thế bên Khu Ðầm
trùng trùng điệp điệp làm bình phong án ngự rất hiểm trở, để là nơi trú quân và gặp gỡ giữa “Ðức
Thánh Ðương Giang và bà Phi Nương Hoàng Hậu trong truyền thuyết sử ghi, có "Cửu khúc long
khê" tưới mát cánh đồng tươi tốt 4 mùa phù sa trải rộng, tạo nên một bức tranh thủy mặc, một
hình tượng đẹp tuyệt trần của một làng quê nông thôn kiểu mẫu Việt Nam.
Nhờ khí thiêng sông núi nơi này mà sinh ra bao lớp người tuấn kiệt, làm rạng danh xứ sở và để lại
tiếng thơm cho muôn đời con cháu mai sau. Mảnh đất địa linh đã sinh ra nhân kiệt phát triển cả
đường Văn chương và đường võ nghiệp.
Nơi làng quê nhỏ bé này ông cha xưa đã để lại một di sản, những nét đẹp có bề dày văn hóa,
những phong tục tập quán tốt đẹp, những di tích lịch sử vật thể và phi vật thể của nhân loại, một
làng cổ có từ xa xưa, làng nghề múa rối nước dân gian nổi tiếng khắp nơi.
Có được một làng quê giàu đẹp, giàu truyền thống lịch sử văn hóa và cuộc sống ấm no hạnh
phúc như hôm nay, là nhờ các vị tiền hiền khai khẩn, các thế hệ ông cha nối tiếp nhau, bằng mồ
hôi nước mắt, bằng bàn tay khối óc, bằng sức mạnh đoàn kết và lòng dũng cảm, bằng máu xương
mình để chiến đấu bảo vệ từng tấc đất thiêng liêng, viết nên những trang sử hào hùng chói lọi.
Ðể giáo dục truyền thống uống nước nhớ nguồn, sống tốt đời đẹp đạo, dựng làng và giữ nước
của các thế hệ ông cha hàng nghìn năm qua, mà mỗi tấc đất ngọn cỏ, mỗi mảnh đất tên sông
thửa ruộng đồng, mỗi địa danh lịch sử, mỗi con người nơi đây đều chói ngời những chiến công
hiển hách.
Ðể tri ân những người có công, đã hết lòng vì dân vì nước vì làng quê có bề dày lịch sử có nghề
múa rối nước truyền thống nổi tiếng, để tham ra vào chương trình viết bài thuyết minh về khu di
tích lịch sử Ðình; Chùa và Rối nước Ðào Thục, tôi quyết định viết bài viết này.
Làng Ðào Thục xã Thụy Lâm huyện Ðông Anh, Hà Nội là một làng cổ có từ lâu đời bởi nơi đây gắn
liền với truyền thuyết đức Thánh Huyền Thiên Trấn Vũ, người giúp Vua An Dương Vương xây
thành Cổ Loa ở Thế kỷ thứ III trước công nguyên (257-207 TCN).
Không rõ từ bao giờ chùa đã có tên là "Thánh Phúc Tự" và có thờ tượng Ðức thánh Trấn phía sau
Tam Bảo từ ngàn năm qua.
Làng Ðào Thục nằm bên con sông Cà Lồ uốn khúc quanh co hàng năm rì rào sóng vỗ, có khi đến
mùa mưa lũ nước trên đầu nguồn chảy về vẫn gây ra úng lụt ngập hết những thửa ruộng bên
“ Ðằng Ðường”. Mặt đê hiện nay cũng đã được đổ bê tông suốt từ đầu Cầu Phủ Lỗ cho đến Cầu
Ðò Lo.
LỊCH SỬ LÀNG ÐÀO XÁ HƯNG THỊNH NHẤT THỜI KỲ LÊ TRUNG HƯNG.
Vua Lê Hy Tông là vị Vua được đánh giá là thịnh trị nhất thời Lê trung hưng, là thời kỳ thanh bình,
kỷ cương được chấn hưng, phép tắc được tôn trọng. Nhà vua được Tây vương Trịnh Tạc phò tá
lên thiên hạ thái bình. Nhờ vào Chúa và cơ nghiệp có sẵn, nhà vua được an nhàn nên thường chú
tâm vào việc xây dựng chủ trương đường lối chiến lược dài hạn, người muốn xây dựng nên một
bản xã trọng điểm của đất Kinh kỳ chốn Kinh Bắc thuở ấy, nên ban tên Xã Ðào Xá và ban sắc chỉ
dụ rằng: “Nhất Kinh kỳ, nhì Ðào Xá”
Ðào Xá có đường bàn cờ
Có Phường rối nước, có cờ Vua ban
Có nhà sưu tầm lịch sử lâu năm về làng Ðào Thục tựa thơ rằng:
Ðất này bền vững dài lâu
Thế như hổ phục rồng chầu uy nghi
Xứng danh được chọn “Nhị Kỳ”
Giao lưu “Ðào hát” thích nghi mọi đời
Núi non sông nước sáng ngời
Ðất này hòa hợp thiên thời vua ban
Và tên Trang Ðào Xá được vang vọng khắp nơi đâu đâu cũng biết đến: “Ðào Xá nhất thôn, nhất
xã của xứ Kinh Thành Thăng Long”.
Theo dòng lịch sử
Nhà Lê trung hưng (1533-1789): kéo dài 256 năm. Qua đây mới thấy thời kỳ phát triển vào bậc
nhất của làng Ðào Xá chúng ta gắn liền với cuộc đời và sự nghiệp của các Vua thời kỳ nhà Hậu Lê
có nhiều điều cần suy ngẫm.
Thời vua Lê Hy Tông lên ngôi từ tháng 4-1675 cho đến tháng 3-1705, sau đó tiếp tục thời gian 11
năm làm Thái Thượng Hoàng và mất vào tháng 4-1716 thọ 54 tuổi.
Nếu tính thời gian thôi không làm quan trong triều của ông Nguyễn Ðăng Vinh và đưa nghệ thuật
múa rối nước về (sau khi Vua Lê Hy Tông nhường ngôi cho Vua Lê Dụ Tông) thì ông về quê kiến
thiết xây dựng và phát triển làng Ðào Thục khoảng năm 1705-1706, lúc ấy ông 47 tuổi.
Có nhà sưu tầm lịch sử cho rằng: Ông Ðào Ðăng Khiêm tức Nguyễn Ðăng Vinh đỗ đến Thám Hoa
(Tiến Sĩ) mà chúa Trịnh không bổ nhiệm làm quan tiếp vì ông theo phò nhà Hậu Lê như cái gai
trong mắt nhà Chúa Trịnh thì kể cũng đúng, nhiều cuộc hội thảo về sử học sau này tại Ðông Anh
có Giáo sư Vũ Khiêu, ông Phạm Văn Châm chủ tịch UBND huyện Ðông Anh đều cho rằng thời kỳ
Vua Lê – Chúa Trịnh hoặc hầu hết chế độ phong kiến, nhiều người xuất thân từ nông dân dù có
thi đỗ học hàm cao đến đâu cũng không mấy được trọng dụng.
Theo tôi thì các Vua thời Lê trung hưng đều có tầm nhìn chiến lược sâu rộng, vì triều đình, triều
đại – làm Vua Chúa cũng chỉ là giai đoạn còn đất nước mới là mãi mãi, nói đến nhân dân phải nói
tới văn hóa dân gian, một đất nước có ổn định lâu bền thì phải đi đôi với việc giữ gìn văn hóa là
nền tảng để phát triển đất nước nên mới đưa “nghệ thuật múa rối nước” một nghệ thuật đỉnh cao
nhất của triều đình trao cho Ðào Ðăng Khiêm cùng đội “Mỹ nữ - Ca nương” về làng Ðào Xá thuở
ấy.
Ngoài nghệ thuật rối nước còn có “Phường Chèo – Phường hát - Phường Ca Trù”.. ở một số nơi
khác xung quanh Kinh Thành Thăng Long với một số “Giáo phường văn nghệ” khác ví dụ như Ca
Trù làng Lỗ Khê trước đó, giáo phường Phú Ðô ở huyện Từ Liêm hay “Phố Hiến”…cũng có câu :
“Nhất Kinh Kỳ, Nhì Phố Hiến”. Giống như nhà nước Việt Nam ta hiện nay có những nhà hát trực
thuộc Trung Ương vậy.
Làng Ðào Xá được Vua ưu ái hơn nữa là việc đưa cả “Cô đào hát” đẹp nghiêng nước nghiêng
thành, người quý phi mà nhà vua yêu quý nhất, đưa về cùng đoàn tùy tùng cùng ông Nguyễn
Ðăng Vinh là gần như muốn dấu nàng ở Trang Ðào Xá, tránh tiếng thị phi. (Theo lời truyền dụ của
Tiến sĩ Nguyễn Bính ghi trong Ðại Việt Sử Ký Toàn Thư năm 1735 hoặc bản chép còn lưu giữ tại
Viện Hán Nôm ghi rằng: “Ðào Xá có đường bàn cờ, có phường rối nước, có cờ vua ban.. nhất thôn
nhất xã, có phường múa rối vua ban, tôn thờ nàng Ðào Hát..vv”.
Trong nhà thờ Ca Công của làng Phú Mỹ, xã Mỹ Ðình, huyện Từ Liêm có tấm bia đá dựng thời Tự
Ðức có ghi: “Ðông Hạ giáp giáo phường Ca Công – Thờ một nữ danh ca họ Vũ, người làng xinh
đẹp hát hay được tuyển vào cung vua giống như Cô Ðào Hát làng Ðào Xá..”. Bà này sau khi mất
cũng được triều đình cấp đất phân ruộng và vua sắc phong: “Nam quốc danh ca Ðào Thị Mẫu”.
Nàng “Ðào Hát - Ca Nương” về Trang Ðào Xá cùng ông Nguyễn Ðăng Vinh là để truyền dạy nghề
ca hát, nàng được xem là “Thiếp yêu” của Vua Lê Hy Tông.
Về sau này không thấy nhắc đến nữa cũng có nhiều câu hỏi được nêu, có nhà sưu tầm nghiên
cứu lịch sử thì cho rằng ngay thời Vua Lê thì Chúa Trịnh đã như vậy sau đến nhà Tây Sơn rồi
Nguyễn Ánh..vv nhất là thời Thiệu Trị thì rất hận thù nhà Tây Sơn vì Nguyễn Huệ lấy Công chúa
Ngọc Hân là con rể của vua Lê Hy Tông.
Vì căm thù nhà Tây Sơn mà Thiệu Trị còn về tận làng (Nành) đào hài cốt công chúa Ngọc Hân
cùng hai con ném xuống sông Ðuống.
Thế nên việc làng Ðào Xá giấu kín được chuyện “Thiếp yêu – Cô Ðào Hát” của Vua Lê Hy Tông là
đáng nể phục lắm, không nên đòi hỏi lịch sử quá khứ phải quá rõ ràng, “Cô Ðào Hát” ở Trang Ðào
Xá đã đi vào tên đất tên làng của Ðào Thục.
Chuyện vua ban ân huệ cho làng Ðào Xá, ông Ðào Ðăng Khiêm chỉ đạo việc xây dựng kiến thiết
lại Ðình – Chùa thành cụm di tích, quy hoạch lại đường làng ngõ xóm phong quang sạch đẹp bàn
cờ, các phường thầy, phường thợ, phường thó, phường canh cửi, hàng vải lụa, hàng lúa ngô khoai
đậu…vv được xếp sắp ngăn nắp, ở mỗi góc làng đều có các cổng làng và những khu “Từ Vũ” “Văn
Chỉ”… đi vào hoạt động giao thương tấp nập như một Kinh thành Thăng Long thu nhỏ nổi tiếng
khắp vùng Kinh Bắc xưa, thế mới xứng câu ca dao “Nhất Kinh Kỳ, Nhì Ðào Xá” là vậy.
Phải nói rằng làng Ðào Thục lúc bấy giờ được xem như một làng kiểu mẫu điển hình ở vùng đồng
bằng Bắc Bộ nước Ðại Việt ta, có bến nước cây đa sân đình, có nhà thủy đình múa rối nước chứa
đựng bao tâm hồn của người Việt, trên bến dưới thuyền giao thương thuận lợi. Cả Ðình làng và
Chùa đều được thờ các vị Thánh, hàng năm cờ xí đưa đường uy nghi rợp trời mỗi khi làng mở hội
hoặc nhà Vua xa giá đi về.
Ông Ðào Tướng Công tên thật là Nguyễn Ðăng Vinh (1659-1732), đỗ Tiến Sĩ năm Tân Mùi 1691
(lúc đó ông 33 tuổi) làm quan Tổng Nội Giám trong Triều Hậu Lê. Ông là người luôn dành nhiều
tâm huyết để phụng dựng triều đình trở nên vững mạnh, xây dựng đất nước ngày càng phát triển
mang tính chiều sâu về văn hóa.
Ðối với làng Ðào Thục ông rất tâm huyết với quê hương, với dân làng, đã cùng dân làng đẩy mạnh
lao động sản xuất, phát triển nhiều ngành nghề, trồng dâu nuôi tằm, dệt lụa. Tổ chức được các
Phường như Phường Thầy, Phường Thợ, Phường Thó, Phường Võ và đặc biệt là Phường Rối. Ông
Nguyễn Ðăng Vinh có công lớn với dân làng nên khi ông qua đời đã được dân làng lập đơn đề
nghị triều đình phong thần, khắc ghi bia đá và lập đền thờ ông. Ðền thờ lúc đầu ở giữa làng
hướng về phía đông (đất nhà ông Bệ bây giờ).
Ông đã biên soạn ra bản Hương Ước của làng, xây dựng và quy hoạch đường làng ngõ xóm
vuông vắn bàn cờ, trên bến dưới thuyền, do vậy mà làng Ðào Thục từ lúc bấy giờ ngày một hưng
thịnh phồn vinh, giàu có vào bậc nhất vùng, người dân hòa thuận đoàn kết tự hào với quê hương
mình, nên có câu vè nói về con người nơi đây rằng: “Khó Kẻ Ðầu còn hơn Giầu Hàng Tổng” ý nói
nơi đây giàu có và trù phú vào bậc nhất vùng quê hương Kinh Bắc.
Ấy mới thấy một làng quê phong cảnh hữu tình, hình ảnh làng Ðào Thục được “Anh Ba Khí” giáo
trò trong nghệ thuật rối nước rằng:
“Nước Ðào Thục vừa trong vừa mát
Ðường xóm thôn sạch đẹp bàn cờ
Ðẹp như phường phố Thủ đô
Ðẹp như một bức họa đồ trong tranh”
Nơi đây được hội tụ bởi những người con gái vô cùng xinh đẹp, nết na hiền thục, nên có thơ ca
ngợi về người con gái làng Ðào Thục rằng: “Ðào Xá có đất trồng bông, con gái ra đồng trông tựa
tiên xa”.
Truyền rằng con gái nơi đây xinh đẹp nổi tiếng khắp vùng nhiều nơi biết đến, vì phụ nữ ở đây nết
na hiền thục hay còn gọi là “thục nữ” nên tên Trang Ðào Xá mới được đổi thành tên Ðào Thục
như ngày nay. Ðào là lấy tên gốc của Ðào Xá, Thục - ý nói các cô gái nơi đây rất xinh đẹp và hiền
thục.
Cũng như “phong trào Ðông Kinh Nghĩa Thục” một phong trào cải cách xã hội, khai trí cho nhân
dân ở Việt nam những năm của Thế kỷ XX, vì vậy mà chữ “Thục” của làng thời xưa có ý nghĩa là
nơi hội tụ của những người con gái đẹp vua ban, là cái nôi cho việc trồng người, dạy chữ, dạy nết,
dạy văn hóa thông qua phong trào văn hóa văn nghệ ở nơi đây.
Làng Ðào Thục cổ xưa thuộc Trang Ðào Xá, Tổng Hương La, huyện Yên Phong, Phủ Thuận An xứ
Kinh Bắc đến thời Ðồng Khánh (1886-1888) được đổi là làng Ðào Thục như hiện nay.
Trước năm 1945 thôn Ðào Thục thuộc Tổng Xuân Nộn, huyện Ðông Anh, tỉnh Phúc Yên. Sau này
Ðào Thục sáp nhập với làng Thụy Lôi, Thư Lâm lập thành Tổng Thư Lâm huyện Ðông Ngàn, sau
đó lại về Tổng Xuân Nộn gồm có các thôn Ðào Thục, Nhạn Tái, Xuân Nộn, Nguyên Khê và Cán
Khê huyện Ðông Anh, tỉnh Phúc Yên.
Từ năm 1949 đặt làm xã Tiến Bộ của huyện Ðông Anh, tỉnh Phúc Yên. Tới năm 1950 là tỉnh Vĩnh
Phúc. Từ năm 1961, xã Thụy Lâm thuộc huyện Ðông Anh và về Thành phố Hà Nội.
Ðình – Chùa Ðào Thục thuộc xã Thụy Lâm ở về phía bắc huyện Ðông Anh. Thụy Lâm là 1 trong 23
xã của huyện Ðông Anh, là một trong những xã thuần nông 100% sản xuất sinh sống bằng nông
nghiệp, hiện nay bắt đầu đang phát triển các nghề thủ công đồ gỗ mỹ nghệ du nhập từ các làng
Phù Khê, Ðồng Kỵ, Vân Hà lên.
-Phía Nam giáp 2 xã Liên Hà và Vân Hà.
-Phía Bắc giáp xã Xuân Thu huyện Sóc Sơn.
-Phía Ðông giáp xã Văn Môn huyện Tiên Sơn, Bắc Ninh
-Phía Tây giáp xã Xuân Nộn.
Làng Ðào Thục, phía Ðông giáp thôn Cổ Miếu, phía Nam từ ngoài đường liên xã đi vào qua các
thôn 1-2 Hà Lâm, phía Tây giáp thôn Ðình Trung (Nhạn Tái), phía Bắc qua con sông Cà Lồ là thôn
Xuân Lai thuộc xã Xuân Thu huyện Sóc Sơn.
Ðến làng Ðào Thục du khách có thể đi từ nhiều phương tiện và nhiều tuyến đường. Từ trung tâm
Hà Nội (Hồ Hoàn Kiếm) đi ra Cầu Chương Dương sang đường Nguyễn Văn Cừ - Ngô Gia Tự (Gia
Lâm) rồi qua Cầu Ðuống rẽ trái theo quốc lộ 3 hướng Hà Nội – Thái Nguyên đến Trung tâm Thị
trấn Ðông Anh rẽ phải vào đường Cao Lỗ, đến ngã 3 Ðản Dị thì rẽ trái đi thẳng xuyên qua các xã
Uy Nỗ - Xuân Nộn. Tới ngã 3 Kim rẽ phải theo đường Thụy lâm, tới địa phận thôn Hà Lâm (xã
Thụy Lâm) thì rẽ trái qua các thôn Hà Lâm 3, Hà Lâm 1 và đến làng Ðào Thục.
Nếu du khách đi theo hướng Cầu Thăng Long hoặc Cầu Nhật Tân thì cũng sang thị trấn Ðông
Anh, rồi có thể đi theo các tuyến đường nêu trên hoặc cách khác đi thẳng quốc lộ 3 Hà Nội –
Thái Nguyên đến Km 28 (Cầu Phủ Lỗ) rẽ phải vào đường đê ven con sông Cà Lồ thơ mộng
khoảng 4km thì đến địa phận làng Ðào Thục.
Cách Trung tâm Hà Nội 30km, nằm gần Kinh Ðô Cổ Loa của nước Âu Lạc ở Thế kỷ thứ III (257 –
208 TCN) đã in dấu truyền thuyết về An Dương Vương xây Thành xoáy chôn ốc. Trong quần thể
di tích này có khu di tích Núi Sái (Thụy Lôi) và Chùa Thánh Phúc (Ðào Thục) thờ Ðức thánh
Huyền Thiên Trấn Vũ người giúp vua An Dương Vương xây dựng Thành Cổ Loa, trong vùng đất
Thư Lâm còn có đình làng Hương Trầm thờ Vương Quý Minh.
Trong cụm di tích ấy Ðình – Chùa Ðào Thục - Trang Ðào Xá có từ xa xưa là nơi thờ cúng linh
thiêng những anh hùng dân tộc, anh hùng văn hóa những năm đầu dựng nước và giữ nước, ngoài
Ðức Thánh Huyền Thiên Trấn Vũ còn có Ðức Thánh Tam Giang khi còn sống là một vị tướng giỏi
dưới thời Triệu Quang Phục ở ngay Thế kỷ đầu (548-571), Ðức Thánh Ðương Giang là vị tướng tài
dưới thời Ðinh Tiên Hoàng ở Thế kỷ VI.
Chùa Thánh Phúc (Ðào Thục) trải qua hàng ngàn năm thăng trầm của thời gian lịch sử, không
biết bao nhiêu lần phải trùng tu tôn tạo, hiện nay vẫn còn lưu giữ 10 bia đá ghi Hậu Thần ở Thế kỷ
16, 17, 18.
Tấm bia có niên đại sớm nhất ghi việc trùng tu ngôi chùa, sửa sang phật điện vào năm 1674 (niên
hiệu Ðức Nguyên 1) và bia năm 1675 (Ðức Nguyên 2). Bia ghi ông Ðào Tiến Vinh chức thị nội
giám ty, tước Ðặng Lộc Bá người xã Ðào Xá, huyện Yên Phong Phủ Từ Sơn và vợ là bà Nguyễn Thị
Ôn là người khảng khái hay bố thí, nay ban cho dân 60 quan tiền 20 sào ruộng..vv
Tiếp đến là 2 bia ghi năm Cảnh Hưng 4 (1743) cũng là bia trùng tu, ghi công đức của những hội
chủ hưng công tu tạo.
Có 5 bia thời Gia Long, Duy Tân…như vậy trong những khoảng thời gian từ khi ra đời đến lúc
dựng các bia thì ngôi chùa đã có ít nhất là 4 lần trùng tu sửa chữa.
Riêng nhà thờ Tổ - Ðiện Mẫu, còn được trùng tu vào những năm đầu Thế kỷ XX là những năm
1947: (Nhà thờ Tổ; 1940: Ðiện Mẫu).
Chùa Ðào Thục được tọa lạc tập trung trên cùng một khu đất rộng, thoáng đẹp tại đầu làng
không hề dễ bị xâm lấn.
Ðình và chùa với diện tích có tới 21.478 m2. Cả hai kiến trúc này đều cùng được xây dựng theo
hướng nam và có tổng thể mặt bằng hình chữ J.
Trước đây xung quanh đình và chùa có rất nhiều những cây cổ thụ lâu năm như Ða, muỗm…đến
nay chỉ còn 1 cây muỗm lâu năm cạnh cái hồ tròn đã được xây gạch xung quanh gốc (nghe nói
trước đây là cái giếng nước ăn của làng).
Trong Hậu Ðường (Nhà thờ Tổ) nơi đây có ba bệ thờ ở hai bên:
-Bên thờ Thánh Huyền Thiên trấn Vũ với hai thị giả đứng chầu.
-Bên thờ Ðức Ông cũng có hai thị giả đứng chầu.
Chính gian giữa là Ðức thánh Tăng.
"Thấp thoáng đâu đây cảnh tượng làng
Có con đường nhỏ chạy lang thang
Có bụi tre gợi hồn sông núi
Chuông vọng…chùa tôi ngập nắng vàng".
Cụm di tích Ðình – Chùa Ðào Thục nằm trong vùng đậm đặc những di tích truyền thống như Cổ
Loa là kinh đô của nhà nước Âu Lạc, nằm trong vùng trung tâm phật giáo của đất nước vây quanh
là rất nhiều đình chùa nổi tiếng như Ðền thờ An Dương Vương, Ðền Sái, Ðình Hương Trầm thờ
Vương Quý Minh…vv
Ðược ra đời hình thành từ xa xưa, chùa Ðào Thục trải qua rất nhiều thăng trầm của lịch sử, cả
đình và chùa đều thờ những người có công trong thời kỳ đầu dựng nước và giữ nước của dân tộc.
Với tình yêu quê hương, những con người nơi đây vượt qua bao khó khăn gian khổ trong cuộc
sống, trong đấu tranh xây dựng đất nước, vẫn luôn quan tâm hết lòng hết sức giữ gìn phát huy
những giá trị văn hóa trong cụm di tích qua bao thế hệ, trong thời đại phát triển kinh tế phải đi
đôi với việc giữ gìn văn hóa.
Người Ðào Thục luôn tự hào với quê hương của mình, từ các cụ già cho đến những trẻ nhỏ trong
làng, kể cả những người con đã thoát li ra ngoài cũng đều một lòng một dạ hướng về quê hương,
mong muốn đóng góp sức lực, của cải vật chất để xây dựng quê hương, khu di tích nổi tiếng của
quê hương mình. Thế mới biết khả năng tiềm ẩn trong mỗi con người nơi đây là vô tận.
Khu di tích tồn tại và phát triển cho đến ngày nay là nhờ vào việc lưu giữ được nhiều di vật quý
hiếm. Tất cả những di vật này vừa là nguồn tư liệu quý giá không chỉ cho quê hương Ðào Thục mà
cho cả những nhà nghiên cứu, những nhà khoa học tìm hiểu về làng cổ, nghề cổ truyền của dân
tộc dân gian Việt Nam.
Ðào Thục nằm ven con sông Cà Lồ dòng nước trong xanh uốn lượn như một dải lụa quanh co.
Ðây là một vùng đất cổ, theo truyền thuyết đã có từ thời Hùng Vương với thế đất long ly quy
phượng - một vùng đất đầy dấu tích lịch sử và văn hóa. Ðứng trên cánh đồng nhìn vào làng, thấy
lung linh như một bức tranh đa sắc màu của làng Việt cổ.
*Những chứng tích gắn với Ðức Thánh Gióng
Làng Ðào Thục từng là bãi chiến trường xưa của Phù Ðổng Thiên Vương đánh giặc Ân. Thánh
Gióng hay gọi là Phù Ðổng Thiên Vương hay Xung Thiên Thần Vương, là một trong bốn vị Thánh
bất tử trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam (tứ bất tử). Người có công dẹp giặc Ân đem lại thái
bình cho đất nước.
Truyền thuyết kể rằng: Ông sinh ra tại xã Phù Ðổng, huyện Gia Lâm, Hà Nội, thời vua Hùng thứ 6.
Thánh Gióng là người "trời" đầu thai làm đứa trẻ tuy lên ba mà không biết nói cười, đi đứng.
Nhưng khi có bộ tộc khác (truyền thuyết ghi là giặc Ân) tràn xuống thì cất tiếng gọi mẹ nhờ ra gọi
sứ giả của nhà vua, rồi bỗng chốc vươn vai thành một thanh niên cường tráng đi đánh giặc. Sau
khi đánh tan giặc Ân, ông bay về trời. Nơi ông hóa chính là núi Sóc thuộc huyện Sóc Sơn, Hà Nội.
Ðại Việt sử ký toàn thư phần Ngoại kỷ toàn thư, kỷ Hồng Bàng thì ghi chép lại về Thánh Gióng
như sau:
Ðời Hùng Vương thứ 6, ở làng Gióng có hai vợ chồng ông bà lão nghèo chăm chỉ làm ăn và có
tiếng là phúc đức thế mà họ vẫn chưa có con. Một hôm bà ra đồng thấy 1 vết chân rất to liền ướm
thử xem thua kém bao nhiêu, không ngờ về nhà bà thụ thai và 12 tháng sau sinh được 1 cậu bé
khôi ngô tuấn tú. Kì lạ thay, cậu bé ấy lên ba mà vẫn không biết nói cười, đặt đâu nằm đấy.
Gặp lúc trong nước có tin nguy cấp, vua sai người đi tìm người có thể đánh lui được giặc. Ngày
hôm ấy, đứa trẻ bỗng nói được, bảo mẹ ra mời thiên sứ vào, nói: "Xin cho một thanh gươm, một
áp giáp sắt và một con ngựa, vua không phải lo gì". Vua ban cho gươm và ngựa, đứa trẻ liền phi
ngựa vung gươm tiến lên trước, quan quân theo sau, đánh tan quân giặc ở chân núi Trâu. Bọn
giặc giẫm đạp lên nhau mà chay.
Thánh Gióng đuổi giặc chạy qua làng Ðào Thục, tới chân núi Sóc thì dừng. Ðứa trẻ cởi áo giáp,
phi ngựa lên trời mà đi. Vua sai sửa sang chỗ vườn nhà của đứa trẻ để lập đền thờ, tuế thời cúng
tế. Về sau, Lý Thái Tổ phong là Xung Thiên Thần Vương. (Ðền thờ ở cạnh chùa Kiến Sơ, hương
Phù Ðổng).
Chứng tích còn lại ở làng Ðào Thục mãi sau này là 72 cái ao chuôm dọc theo làng trùng với 18
bước chân ngựa sắt của Thánh Gióng chạy lên hướng Ðền Sóc, còn có những bụi tre “đằng ngà”
phía trước Chùa là vũ khí dùng đánh đuổi giặc của Thánh Gióng và rơi lại cả phía đường Nhạn
làng bên. Thật kỳ lạ là những cái ao chuôm còn lại mãi sau này được đan chéo nhau hệt như bước
chân ngựa kéo dài suốt từ phía làng Phù Ðổng đi lên phía đền Sóc Sơn.
*Làng Ðào Thục - nơi trú chân của Tướng quân Ðề Thám một thời.
Ở vùng đất vào một địa thế tuyệt vời có thành cao hào sâu bao xung quanh làng, dễ phòng thủ
khó tấn công, làng Ðào Thục xưa kia cũng là nơi che trở ẩn nấp của tướng quân Hoàng Hoa Thám
(1836 – 10 tháng 2 năm 1913), còn gọi là Ðề Dương, Ðề Thám hay Hùm xám Yên Thế, là người
lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Yên Thế chống Pháp (1884–1913).
Năm 1962, nhà nghiên cứu Hoài Nam, trong một bài viết đăng trên tạp chí Nghiên cứu Lịch sử,
cho biết Ðề Thám sinh năm 1846, trước khi cải từ họ Trương sang họ Hoàng, ông còn mang họ
Ðoàn. Kể từ đó, hầu hết các tài liệu viết về Ðề Thám đều cho rằng ông gốc họ Trương, hồi bé tên
Trương Văn Nghĩa, sau đổi thành Trương Văn Thám, quê ở xã Dị Chế, huyện Tiên Lữ, tỉnh Hưng
Yên; sau di cư lên Sơn Tây (nay bao gồm một phàn ngoại thành Hà Nội, một phần các tỉnh Phú
Thọ, Hòa Bình, Tuyên Quang và toàn tỉnh Vĩnh Phúc), rồi đến Yên Thế (Bắc Giang). Cha ông là
Trương Văn Thận và mẹ là Lương Thị Minh. Sinh thời, cha mẹ ông đều là những người rất trọng
nghĩa khí; cả hai đều gia nhập cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Văn Nhàn, Nông Văn Vân ở Sơn Tây.
Gần đây, Nhà nghiên cứu Khổng Ðức Thiêm trong một bài viết công bố trên tạp chí Xưa và Nay'
đã căn cứ vào Ðại Nam thực lục' – Chính biên - Gia phả họ Bùi (Thái Bình) và Gia phả họ Ðoàn (Dị
Chế) cho biết Trương Thận (tức cha của Ðề Thám) chỉ là biệt danh của một thủ lĩnh nông dân để
nổi lên chống lại nhà Nguyễn, tên chính là Ðoàn Danh Lại, người làng Dị Chế, huyện Tiên Lữ, tỉnh
Hưng Yên, bị anh em Bùi Duy Kỳ bắt giết đem nộp triều đình vào tháng 9 năm Bính Thân, Minh
Mệnh thứ 17 (tháng 10 năm1836). Cũng theo Nhà nghiên cứu Khổng Ðức Thiêm, Ðoàn Danh Lại
có hai con trai: con lớn tên là Ðoàn Văn Lễ (sau cải là Trương Văn Leo, không rõ năm sinh), con
thứ là Ðoàn Văn Nghĩa (tức Trương Văn Nghĩa, tức Ðề Thám sau này, sinh được mấy tháng thì bố
mẹ bị giết hại). Luận điểm này được Khổng Ðức Thiêm khẳng định lại trong tác phẩmHoàng Hoa
Thám (1836-1913).
Gia phả dòng họ Ðinh trong làng Ðào Thục còn lưu giữ nói rằng có một vị tướng lĩnh của Ðề Thám
là Ðinh Công Nho cùng với hơn 10 trai tráng dũng sĩ trong làng khác là lính đi theo hầu bảo vệ
tướng quân.
*Lược sử ra đời của Phường múa rối nước
Vào thời Hậu Lê làng Ðào Thục có Ông Ðào Tướng Công (Tự Phúc Khiêm) tên thật là Nguyễn
Ðăng Vinh quê ở Ðào Xá, huyện Yên Phong, Bắc Ninh nay là Ðào Thục, xã Thụy lâm, huyện Ðông
Anh, Hà Nội.
Sau khi đỗ bảng Thám Hoa được bổ nhiệm làm quan Tổng Nội Giám thuộc hàng quan Tam Phẩm
trong Triều Hậu Lê, ông chú ý đến việc mở mang xây dựng đất nước, quê hương giầu đẹp. Ông
cho xây dựng lò đúc tiền đồng cho nhà Vua, cải cách ruộng đất quy hoạch lại để trồng bông dệt
vải, trồng dâu nuôi tằm dệt lụa.
Về quê với tâm huyết của mình, ông đã lập ra được các Phường hội như: Phường Võ – Dạy võ để
đẩy mạnh An ninh bảo vệ, Phường Thầy – dạy chữ, Phường Thợ - Dạy nghề xây dựng, thợ mộc,
Phường Cối – nghề đóng cối xay xát thóc gạo…và đặc biệt là Phường Rối Nước.
Ông làm quan trong Triều Lê đã sớm tiếp thu Nghệ thuật Múa Rối Nước từ các địa phương vào
biểu diễn trong cung đình, chọn lọc những nghệ thuật đỉnh cao nhất của rối nước rồi vâng mệnh
Vua đem về truyền bá cho dân làng Ðào Thục.
Minh chứng:
Tấm bia đá Hậu Thần Bia Ký đã ghi: Ông Nguyễn Ðăng Vinh tức Ðào Ðăng Khiêm làm quan Nội
Giám, được dân làng lập đơn bầu Hậu Thần ngày 20 tháng 6 niên hiệu Cảnh Hưng thứ 1 (1740)
dưới thời Vua Lê Ý Tông (1735-1740) vì có công với dân làng Ðào Thục. Trên bia có ghi ông tạ thế
ngày 24 tháng 2 năm Nhâm Tý (1732). Vợ ông Ðào Ðăng Khiêm là bà Nguyễn Thị Cảnh.
Ngày lập bia mồng 10 tháng Bảy năm Vĩnh Hựu thứ IV -1738, lập đơn bầu Hậu Thần ngày 20
tháng 6 niên hiệu Cảnh Hưng thứ nhất (1740).
Lúc bấy giờ là xã Ðào Xá, đại diện nhân dân tất cả những người có chức sắc đứng ra ký tên, ai
không biết chữ thì điểm chỉ về việc khắc tấm bia này lưu truyền mãi mãi về sau nhắc nhở con
cháu dân làng đời đời ghi nhớ. (Bia đá hiện nay đã được xây thành nhà bia để tưởng niệm và cúng
thờ ông bà).
Ngày nay để tưởng nhớ công lao to lớn của ông, bà là người có công đầu trong việc hình thành
xây dựng Phường rối nước làng Ðào Thục, dân làng cứ đến ngày mất của ông 24 tháng 2 âm lịch
hàng năm làm Lễ thờ ông Tổ nghề rối.
Trong Văn Bia của dân làng lập, gọi tên ông là Ðào Ðăng Khiêm – có ý nói lấy tên làng làm Họ để
coi ông bà như thần hoàng làng vậy. Ðào là tên của làng Ðào Xá (Ðào Thục), Ðăng là giữ tên đệm
của ông còn Khiêm ý nghĩa khiêm tốn, khiêm nhường. Ðối với dân làng luôn khiêm tốn, kính trên
nhường dưới nên được nhân dân tin theo, tôn thờ ông bà như cha mẹ mãi mãi muôn đời.
Mộ ông Ðào Ðăng Khiêm (tức Nguyễn Ðăng Vinh) chôn cất cách làng 200m về phía Ðông Nam.
Trước mộ có hai con Nghê (Sấu) và hai con Chó bằng đá, xung quanh mộ được xây bằng đá ong,
hiện nay mộ vẫn còn được giữ nguyên.
Với những chứng tích và lịch sử hào hùng từ ngàn xưa, làng Ðào Thục luôn được biết đến là một
làng cổ có từ lâu đời đẹp như bức tranh làng Việt cổ kính, có cây đa bến nước sân đình. “Ðình
làng” và chùa “Thánh Phúc” đều có thờ “Thánh” chứ không chỉ thờ “Thần” vì thế nên nơi đây vẫn
là nơi dừng chân và điểm đến của rất nhiều du khách khắp nơi, trong nước và quốc tế. Mảnh đất
linh thiêng này là chốn bình yên, để mọi người tĩnh tâm cầu tài cầu may mắn và sự bình an thanh
thản của mỗi người.
Ban VH và QLDT.